Tổng quan và lịch sử Nữ tính

Sự ra đời của Thần Vệ Nữ (1486, Uffizi) là một biểu tượng cổ điển của tính nữ, được vẽ bởi Sandro Botticelli.[13][14]Thần Vệ Nữ là một nữ thần La Mã gắn liền với tình yêu, sắc đẹp và sinh sản.

Mặc dù các cụm tính nữ và tính nam được sử dụng rộng rãi, có rất ít sự đồng tình về mặt khoa học về bản chất của hai cụm từ này.[2]:5 Giữa những nhà nghiên cứu, khái niệm tính nữ có nhiều ý nghĩa khác nhau.[15]

Tara Williams đã đề xuất rằng những quan niệm hiện đại về tính nữ trong xã hội nói tiếng Anh bắt đầu trong thời kì trung cổ ở Anh và tại thời điểm dịch hạch đang hoành hành vào những năm 1300.[16] Những người phụ nữ thời kì đầu trung cổ chỉ đơn giản được nhắc đến gắn liền với những vai trò truyền thống của họ: người thiếu nữ, người vợ, hoặc người góa phụ.[16]:4 Sau khi đại dịch Cái chết Đen ở Anh xóa sổ gần như một nửa dân số, những vai trò giới truyền thống của người mẹ hay người vợ thay đổi, và mở ra những cơ hội cho phụ nữ trong xã hội. Prudence Allen đã truy lần ra cái cách mà khái niệm “phụ nữ” thay đổi trong thời kì này.[17] Cụm từ femininity (tính nữ) và womanhood (phụ nữ) được xuất hiện lần đầu tiên trong tác phẩm của Chaucer vào khoảng năm 1380.[18][19]

Vào năm 1949, nhà trí thức người Pháp Simone de Beauvoir đã viết rằng “không đặc tính về sinh học, tâm lý, và kinh tế nào có thể quyết định hình tượng mà người nữ thể hiện trong xã hội” và “một người không sinh ra là phụ nữ, mà họ trở thành một người phụ nữ,”[20] một ý tưởng được tiếp thu vào năm 1959 bởi nhà xã hội học người Mỹ-Canada Erving Goffman[21] và vào năm 1990 bởi nhà triết học người Mỹ Judith Butler[22], người đã đưa ra thuyết rằng giới không cố định hay cố hữu mà là một tập hợp các hành vi và đặc tính được xã hội định nghĩa, mà qua thời gian được gán nhãn nữ tính hay nam tính.[23] Goffman lập luận rằng phụ nữ bị xã hội áp đặt phải thể hiện bản thân là “đài các , trang nhã và mong manh, không được học về và không phù hợp với tất cả những gì cần đến sức mạnh cơ bắp” và cho thấy “sự nhút nhát, dè dặt và hiện diện của sự yếu đuối, nỗi sợ và sự kém cỏi.”[24]

Lewis TermanCatherine Cox Miles đã tiên phong trong các nỗ lực mang tính khoa học nhằm đo lường tính nữ và tính nam trong những năm 1930. Thang đo M-F của họ đã được tiếp thu bởi những nhà nghiên cứu và nhà tâm lý học khác. Những mô hình này cho rằng tính nữ và tính nam là những phẩm chất bẩm sinh và lâu dài, không dễ dàng để đo lường, đối nghịch với nhau, và sự mất cân đối giữa chúng dẫn đến những rối loạn tâm thần.[25]

Cùng với phong trào phụ nữ trong những năm 1970, các nhà nghiên cứu bắt đầu tách ra khỏi mô hình M-F, và hình thành sự quan tâm đến khái niệm lưỡng tính.[25] Hai bài kiểm tra tính cách được biết đến rộng rãi, Bảng Tóm tắt Vai trò Giới tính của Bem (Bem Sex-Role Inventory) và Bộ câu hỏi Thuộc tính Cá nhân (Personal Attributes Questionnaire), được phát triển để đo lường tính nữ và tính nam trên những thang đo tách biệt. Sử dụng những bài kiểm tra như vậy, các nhà nghiên cứu đã tìm ra rằng hai khía cạnh thay đổi độc lập với nhau, gây ra sự nghi ngờ về quan điểm trước đây rằng tính nữ và tính nam là những phẩm chất đối lập.[25]

Những người theo làn sóng nữ quyền thứ hai, nhờ ảnh hưởng của de Beauvoir, tin rằng mặc dù sự khác biệt sinh học giữa nữ giới và nam giới là bẩm sinh, khái niệm về tính nữ và tính nam được nhào nặn bởi văn hóa, với những đặc điểm như sự thụ động và nhẹ nhàng được áp đặt lên phụ nữ, và tính nóng nảy cũng như thông minh được áp đặt lên đàn ông.[26][27] Theo lời những người theo làn sóng nữ quyền thứ hai, trẻ em gái bị xã hội uốn nắn cho phù hợp với những giá trị và hành vi nữ tính với đồ chơi, trò chơi, truyền hình và trường học.[26] Trong cuốn sách mang ý nghĩa quan trọng năm 1963, The Feminine Mystique (tạm dịch: Sự Thần bí Nữ tính), nhà nữ quyền người Mỹ Betty Friedan đã viết rằng chìa khóa cho việc khuất phục phụ nữ nằm ở cấu trúc xã hội coi tính nữ là ngây thơ, thụ động và phụ thuộc,[28] và kêu gọi cho một “sự tái định hình quyết liệt trong hình ảnh văn hóa của tính nữ.”[29]